Giải quyết tranh chấp đất đai
Câu trả lời
Câu hỏi:
Tôi có mua một căn nhà bằng giấy viết tay qua 2 chủ (của ông A mua của bà B) và ông A đã bán lại cho tôi. Cách đây đã 10 năm, vì sổ đỏ có thể sang tên được nên tôi đã trực tiếp gặp bà B để kêu bà sang tên cho tôi thì bà đồng ý với yêu cầu phải đưa bà 20 triệu, lúc đó sổ đỏ gặp vấn đề nên đi biến động và vì cớ đó bà đã chiếm đoạt sổ. Vậy với tình huống của tôi, tôi phải làm sao? Và phải viết đơn khiếu nại như thế nào và gửi đơn này đến đâu (Tòa án hay UBND)?
Trả lời:
Do thông tin bà cung cấp không rõ các vấn đề như: Hiện nay bà có đang giữ giấy mua bán giữa bà B và ông A, giữa ông A và bà? Thời điểm mua bán cụ thể trong năm nào? Bà đã giao cho bà B 20 triệu đồng chưa? Nội dung đăng ký biến động đất đai ở đây là gì? Nên Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh trả lời như sau: Khoản 2 Điều 82 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01/7/2014 mà bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ có Giấy chứng nhận của bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất theo quy định thì người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và các giấy tờ về quyền sử dụng đất hiện có. Căn cứ quy định nêu trên, nếu bà và ông A làm giấy tờ mua bán đất viết tay và hiện nay bà còn giữ giấy mua bán đất viết tay giữa ông A với bà B và giữa ông A với bà thì để làm thủ tục đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà phải có Giấy chứng nhận của bên chuyển quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất theo quy định, tức là hợp đồng phải được công chứng chứng nhận. Hơn nữa, tại điểm b khoản 9 Điều 4 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 quy định về thành phần hồ sơ trong trường hợp nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01/7/2014 mà bên chuyển quyền đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không lập hợp đồng, văn bản chuyển quyền theo quy định gồm có: - Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo Mẫu số 09/ĐK; - Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp; - Giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất có đủ chữ ký của bên chuyển quyền và bên nhận chuyển quyền; Đối với quy định trên, có thể thấy trong trường hợp cụ thể của bà thì bà không thể thực hiện được việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất bà đã nhận chuyển nhượng từ ông A do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện do bà B chiếm giữ. Do việc mua bán phần đất mà bà B đứng tên được xác lập giữa bà và ông A thông qua giấy viết tay, tức là chỉ có ông A là người có quan hệ hợp đồng mua bán đất với bà. Vì vậy để đảm bảo quyền và lợi ích của mình, căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bà có quyền khởi kiện ông A tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên đã giao kết, đồng thời đưa bà B vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Nếu cần được trả lời cụ thể, bà có thể liên hệ đến Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bình Dương, địa chỉ: 469 Đại lộ Bình Dương, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một, vui lòng đem theo các tài liệu liên quan đến vụ việc.