Khác
27 thg 9, 2019
Quy định xét hộ nghèo
Câu trả lời

Câu hỏi:
Tôi tên là Nguyễn Trọng Trung, thường trú tại số 36/6 đường Ngô Chí Quốc, tổ 85, khu 13, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Vào đầu năm 2014, cha tôi là Nguyễn Văn Trọng cũng là chủ hộ đã lừa dối mẹ tôi là bà Dương Thị Kim Hương tức là vợ của ông Trọng. Ông lợi dụng sự tin tưởng và nhẹ dạ của mẹ tôi để ký giấy buôn bán sang nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Quang Thái, phường đội trưởng phường Phú Cường. Ông Trọng nói là chỉ ký giấy để cầm cố vay mượn tiền của ông Thái nhưng thực chất là ký giấy chuyển nhượng mà mẹ và các anh chị em của tôi thì không hề hay biết. Đến gần cuối năm 2014 phía bên gia đình ông Thái đòi nhà và kêu mẹ con tôi dọn đồ ra ngoài. Sự mua bán giữa ông Thái và ông Trọng diễn ra mà mẹ con tôi không hề hay biết gì cả đến khi gia đình ông Thái đòi nhà thì mới hay là giấy tờ sang nhượng đã được sang tên cho bà Phượng là vợ của ông Thái. Kể từ lúc bán nhà và đến lúc dọn đi thì mẹ con tôi chưa nhận được bất kỳ số tiền nào từ việc bán nhà cả và mẹ con tôi đã cố liên lạc với ông Trọng về sự việc trên nhưng ông Trọng không nghe máy và đã bỏ đi không rõ tung tích. Hiện tại mẹ con tôi đang thuê nhà và tạm trú tại 102/33 đường Lý Tự Trọng, tổ 76, khu 6, phường Phú Thọ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tôi kính mong và cần sự giúp đỡ của các ngành, các cấp. Nếu trường hợp như vậy thì có được xem là hộ nghèo và có được hưởng chế độ gì không như: Cấp đất,nhà tình thương... Kính mong các ban ngành các cấp chính quyền giúp dùm cho tôi.

Trả lời:
Căn cứ Quyết định số 65/2015/QĐ-UBND ngày 23/12/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc quy định chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều tỉnh Bình Dương, giai đoạn 2016-2020 và chính sách bảo lưu đối với hộ thoát nghèo và Quyết định số 2542/QĐ-UBND ngày 28/9/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh về ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tỉnh Bình Dương giai đoạn 2016-2020, trong đó quy định về tiêu chuẩn để xét hộ nghèo như sau: Hộ gia đình có hộ khẩu thường trú trên địa bàn tỉnh Bình Dương. - Tiêu chí về thu nhập Chuẩn nghèo về thu nhập: 1.200.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 1.400.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị; - Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản: Các dịch vụ xã hội cơ bản (5 dịch vụ) gồm: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin; Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ cơ bản bao gồm 10 chỉ số: (1) Trình độ giáo dục của người lớn; (2) Tình trạng đi học của trẻ em; (3) Tiếp cận các dịch vụ y tế; (4) Bảo hiểm y tế; (5) Chất lượng nhà ở; (6) Diện tích nhà ở bình quân đầu người; (7) Nguồn nước sinh hoạt; (8) Loại hố xí/nhà tiêu; (9) Sử dụng dịch vụ viễn thông; (10) Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin. 3. Quy định về chuẩn hộ nghèo đa chiều: - Hộ nghèo ở khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 1.200.000 đồng trở xuống; + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.200.000 đồng đến 1.600.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên (thiếu hụt 30/100 tổng điểm thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên).  - Hộ nghèo ở khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 1.400.000 đồng trở xuống; + Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.400.000 đồng đến 1.800.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên (thiếu hụt 30/100 tổng điểm thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên). Việc xét hộ nghèo được thực hiện theo thông tư số 17/2016/TT-BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020. Theo đó, đối với trường hợp hộ gia đình có phát sinh khó khăn đột xuất thì làm giấy đề nghị xét duyệt bổ sung hộ nghèo, hộ cận nghèo (theo mẫu số 1a phụ lục kèm theo Thông tư số 17/2016/TT-BLĐTBXH), có xác nhận của trưởng khu/ấp nơi cư trú và nộp trực tiếp đến Ủy ban nhân dân cấp xã để được xem xét, giải quyết.